Lượt xem: 1948
Nhằm tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi, tăng tính chủ động cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; ngày 12/5/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 68/NQ-CP về tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động và huy động nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty trong phát triển kinh tế - xã hội.

Đến hết năm 2020, Việt Nam còn khoảng gần 500 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và gần 200 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối (trong số 350 doanh nghiệp có vốn góp của Nhà nước). Hiện nay, không tính đến các doanh nghiệp quốc phòng, an ninh và nông lâm nghiệp thì có 94 doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn gồm: 09 tập đoàn kinh tế, 67 tổng công ty nhà nước, 18 công ty hoạt động theo mô hình nhóm công ty mẹ - công ty con. Tuy chỉ chiếm hơn 10% về số lượng nhưng doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn lại nắm giữ khoảng 90% tổng tài sản, 88% tổng doanh thu và 86% lợi nhuận trước thuế của toàn bộ doanh nghiệp trên phạm vi toàn quốc. Tổng giá trị tài sản năm 2021 của khối doanh nghiệp nhà nước là 4 triệu tỷ đồng; quy mô tài sản bình quân là 4.100 tỷ đồng/doanh nghiệp nhà nước, thu hút khoảng 0,7 triệu lao động.

Khu vực doanh nghiệp nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước. Trong các năm qua, doanh nghiệp nhà nước đã đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, an sinh xã hội, thực hiện các nhiệm vụ chính trị do Đảng và Nhà nước giao, thể hiện vai trò nòng cốt trong một số ngành, lĩnh vực và tạo nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước. Đặc biệt trong bối cảnh dịch Covid-19 và những biến động trong khu vực, quốc tế, doanh nghiệp nhà nước đã tích cực triển khai và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên hiệu quả hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ, vẫn còn doanh nghiệp, dự án sản xuất, kinh doanh hiệu quả thấp, thua lỗ kéo dài; vai trò dẫn dắt, tạo động lực, mở đường, thúc đẩy thành phần kinh tế khác chưa được phát huy rõ nét; năng lực đổi mới sáng tạo còn hạn chế…

Cần phải khơi thông nguồn lực, phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. (Ảnh: ST)

Đóng góp vào ngân sách nhà nước bình quân giai đoạn 2021 - 2025 tăng 5 - 10% so với giai đoạn 2016 - 2020

Nghị quyết của Chính phủ đã đề ra một số mục tiêu để đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Theo đó tập trung hoàn thiện các cơ chế, chính sách nhằm tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi, tăng tính chủ động cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh, việc chấp hành pháp luật về đầu tư, quản lý và sử dụng vốn nhà nước làm tiêu chí đánh giá chủ yếu. Chú trọng đạo đức kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp, nâng cao năng lực điều hành, tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của người đứng đầu; thường xuyên bồi dưỡng trình độ chuyên môn, đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, công nhân, viên chức, người lao động.

Nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng khoa học công nghệ, khuyến khích hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo tại doanh nghiệp. Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty quy mô lớn có năng lực công nghệ và đổi mới sáng tạo để đầu tư phát triển trong một số ngành, lĩnh vực mới hoặc có tính chất quan trọng của nền kinh tế như: năng lượng, kết cấu hạ tầng quốc gia, tài chính, công nghiệp viễn thông, công nghiệp bán dẫn, công nghệ lõi…

Đến năm 2025, phấn đấu đạt 5 mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể. Trong đó 100% tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước ứng dụng quản trị trên nền tảng số, thực hiện quản trị doanh nghiệp tiệm cận với các nguyên tắc quản trị của OECD; phấn đấu 100% tập đoàn kinh tế, tổng công ty có dự án triển khai mới, trong đó có một số dự án đầu tư tiêu biểu, có tính chất dẫn dắt, lan tỏa, mang thương hiệu của doanh nghiệp nhà nước; 100% doanh nghiệp nhà nước có định hướng và thực hiện chuyển dịch đầu tư, hướng đến các dự án đầu tư, sử dụng công nghệ xanh, sạch và giảm thải khí carbon.

Có ít nhất 25 doanh nghiệp nhà nước có vốn chủ sở hữu hoặc vốn hóa trên thị trường chứng khoán đạt trên 1 tỷ đô la Mỹ, trong đó có ít nhất 10 doanh nghiệp đạt mức trên 5 tỷ đô Mỹ. Đóng góp của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước vào ngân sách nhà nước bình quân giai đoạn 2021 - 2025 tăng khoảng 5 - 10% so với giai đoạn 2016 - 2020.

Giải quyết dứt điểm tình trạng đầu tư dàn trải, ngoài ngành

Để đạt được các mục tiêu đặt ra, nhiệm vụ và giải pháp đầu tiên cần triển khai thực hiện là tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách liên quan. Khẩn trương rà soát, sửa đổi đồng bộ các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp nhà nước như Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, Luật Đấu thầu,… theo hướng phân cấp mạnh mẽ hơn nữa cho cơ quan đại diện chủ sở hữu trong thực hiện một số quyền. Nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách tiền lương theo nguyên tắc thị trường, gắn với năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nghiên cứu, xây dựng các cơ chế chính sách quản lý và phát triển riêng đối với một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn; đề xuất cơ chế phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cơ quan liên quan; cơ chế thúc đẩy doanh nghiệp mạnh dạn nâng cao năng lực cạnh tranh, theo kịp tốc độ phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, thay đổi mô hình kinh doanh… Đặc biệt nghiên cứu, rà soát tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc giao tài sản công để khai thác hiệu quả, nhất là trong một số lĩnh vực đặc thù. Hoàn thiện Chiến lược tổng thể đầu tư phát triển doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, làm cơ sở để các doanh nghiệp nhà nước trực thuộc triển khai thực hiện.

Công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước cần tiếp tục được đẩy mạnh. Theo đó khẩn trương triển khai thực hiện cơ cấu lại doanh nghiệp; định kỳ rà soát việc chấp hành các quy định về đăng ký lưu ký, đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán đối với các doanh nghiệp đã cổ phần hóa, kịp thời đề xuất giải pháp phù hợp, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm

Đẩy mạnh việc huy động nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực; gắn chiến lược phát triển doanh nghiệp nhà nước với phát triển ngành, lĩnh vực để phát huy nguồn lực quan trọng của đất nước. Xây dựng và trình cấp có thẩm quyền chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển của doanh nghiệp, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty. Xây dựng cơ chế khuyến khích phối hợp, hợp tác giữa doanh nghiệp nhà nước với nhau và với các doanh nghiệp tư nhân để thực hiện các dự án quy mô lớn. Nghiên cứu, nâng cao vai trò của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước, nhất là vai trò là nhà đầu tư của Chính phủ để thu hút thêm nguồn lực tài chính vào các doanh nghiệp, dự án lơn, quan trọng.

Nhiệm vụ và giải pháp mấu chốt là nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Thông qua rà soát, tinh giản bộ máy, thiết lập hệ thống quản trị, kiểm soát nội bộ có hiệu quả. Kiên quyết phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, xung đột lợi ích, tình trạng móc ngoặc, hình thành “lợi ích nhóm”, “sân sau”, lạm dụng chức vụ, quyền hạn thao túng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, trục lợi cá nhân, tham nhũng, lãng phí, gây tổn hại cho Nhà nước và doanh nghiệp. Chú trọng nâng cao giá trị thương hiệu của doanh nghiệp nhà nước trên thị trường trong nước và quốc tế, đạo đức kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp; tiết kiệm tối đa chi phí, tối ưu hóa các nguồn lực về vốn, đất đai của doanh nghiệp nhà nước. Tăng cường áp dụng mô hình kinh doanh mới, sử dụng tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường để nâng cao năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh. Giải quyết dứt điểm tình trạng đầu tư dàn trải, ngoài ngành, lĩnh vực kinh doanh chính thống qua việc thoái vốn, bảo đảm các doanh nghiệp nhà nước tập trung vào lĩnh vực kinh doanh chính.

Cùng với đó, giải pháp cần triển khai mạnh trong thời gian tới là nâng cao hiệu qủa và vai trò lãnh đạo toàn diện của tổ chức Đảng đối với doanh nghiệp nhà nước, đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo, chỉ đạo trong thực hiện nhiệm vụ chính trị và quản lý cán bộ; quy định rõ trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu tổ chức Đảng và thực hiện nghiêm túc công tác thanh tra, kiểm tra, phòng chống tham nhũng.

Nghị quyết có hiệu lực kể từ ngày ký ban hành; các cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Hội đồng thành viên, người đại diện phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp khẩn trương quán triệt, thực hiện quyết liệt, hiệu quả những nội dung tại Nghị quyết./.